TS Lê Trung Nguyệt
Cách đây
55 năm - năm 1959, Hội nghị Trung ương lần thứ 15 (HNTƯ15)
khóa II đã thông qua một quyết định lịch sử: “Con đường phát triển cơ bản của
cách mạng Việt Nam ở miền Nam là khởi nghĩa giành chính quyền về tay nhân dân.
Theo tình hình cụ thể và yêu cầu hiện nay của cách mạng thì con đường đó là lấy
sức mạnh của quần chúng, dựa vào lực lượng chính trị của quần chúng là chủ yếu,
kết hợp với lực lượng vũ trang để đánh đổ quyền thống trị của đế quốc và phong
kiến, dựng lên chính quyền cách mạng của nhân dân”(1). Để đi tới
quyết định chiến lược này, HNTƯ15 phải họp kéo dài thành hai đợt: đợt 1 từ ngày
12 đến 22-1-1959. Đợt 2: vào tháng 5-1959. Đề án hội nghị phải sửa chữa, bổ
sung và hoàn thiện gần 30 lần, chưa kể thời gian chuẩn bị đề án đã mất hai năm
ở miền Bắc và hơn ba năm ở miền Nam(2). Sự phức tạp và khó khăn này là do có
những tác động chồng chéo, cả chủ quan và khách quan.
Sau Hiệp định Genève năm 1954,
Mỹ đã lộ rõ nguyên hình “diều hâu”: thay chân Pháp, xúi giục chính quyền Diệm
phá hoại hiệp định - không thực hiện tổng tuyển cử, thi hành chính sách thực
dân mới ở miền Nam nhằm chia cắt lâu dài đất nước ta như là một “mắt xích”
trong chiến lược “Ngăn chặn chủ nghĩa cộng sản” ở châu Á. Âm mưu thâm độc của
Mỹ đã được Bác Hồ dự liệu từ trước. Ngày 8-5-1954, trong “Thư khen ngợi bộ đội,
dân công, thanh niên xung phong và đồng bào Tây Bắc đã chiến thắng vẻ vang ở
Điện Biên Phủ”, Chủ tịch Hồ Chí Minh đã nhắc nhở: “Thắng lợi tuy lớn nhưng mới
là bắt đầu. Chúng ta không nên vì thắng mà kiêu, không nên chủ quan khinh
địch”(3). Còn về công tác tư tưởng, Người đã chỉ đạo đồng chí Tố Hữu: “Chiến
thắng Pháp rồi, phải nhớ trước mặt ta còn có kẻ địch hùng mạnh hơn, hung ác
hơn, đó là đế quốc Mỹ”(4).
Tháng 8 năm 1954, đồng chí Lê
Duẩn khi đó đang công tác ở Quảng Ngãi, đã nhận được lệnh của Chủ tịch Hồ Chí
Minh vào Nam để cùng với Xứ ủy Nam Bộ lãnh đạo phong trào cách mạng trong tình
hình mới khi đất nước bị tạm thời chia cắt làm hai miền theo vĩ tuyến 17. Quán
triệt sâu sắc tư tưởng của Bác về âm mưu thâm độc của địch và từ thực tiễn đầy
xương máu của phong trào quần chúng từ nông thôn tới đô thị trong cuộc đấu
tranh chống “tố cộng” và “diệt cộng” của địch, qua nhiều lần trao đổi, tháng
8 năm 1956, đồng chí Lê Duẩn đã hoàn thành bản dự thảo “Đề
cương cách mạng miền Nam” ngay tại căn nhà số 29 đường
Huỳnh Khương Ninh, gần chợ Đa Kao (nay thuộc quận 1, TP.Hồ Chí Minh). Với tư
duy chiến lược vượt trội của “ngọn đèn 200 nến”, đồng chí đã sớm đi tới chân
lý: “Nhân
dân ta ở miền Nam chỉ có một con đường là vùng lên chống Mỹ - Diệm, để cứu nước
và tự cứu mình. Đó là con đường cách mạng. Ngoài con đường đó, không còn con
đường nào khác”(5).
Vào cuối tháng 4 năm 1957, đồng
chí Lê Duẩn đã được Bộ Chính trị và Bác Hồ điều ra Hà Nội. Đồng chí được phân
công chủ trì công việc của Ban Bí thư và cùng một số đồng chí lãnh đạo khác
chuẩn bị cho HNTƯ15. Sau khi đồng chí Lê Duẩn lên đường ra Bắc, Xứ ủy Nam Bộ đã
cử đồng chí Phan Văn Đáng - Ủy viên Thường vụ Xứ ủy và đồng chí Phạm Văn Xô -
Xứ ủy viên ra Hà Nội báo cáo tình hình và xin ý kiến Trung ương về chủ trương,
đường lối cách mạng miền Nam. Tháng 8-1957, hai đồng chí ra tới Hà Nội, nhưng
phải chờ từ đó tới qua năm 1958, đến tháng 1-1959 mới được dự họp “thảo luận ở
tổ”. Trong đợt 1 của HNTƯ15 (mở rộng), “khi bàn về phương pháp tiến hành chiến
tranh cách mạng miền Nam, có nhiều ý kiến nêu trong hội nghị:
- Loại ý kiến thứ nhất đề nghị
vũ trang và tiến hành chiến tranh du kích, xây dựng căn cứ địa.
- Loại ý kiến thứ hai không đồng ý tiến hành đấu tranh vũ trang
mà phải dựa vào pháp lý của Hiệp định Genève, đấu tranh bằng phương pháp hòa
bình.
- Loại ý kiến thứ ba cho rằng phải khởi nghĩa nhưng làm từng
bước”(6).
Sau HNTƯ15 đợt 1 không thấy kết
quả, trong khi đó thì phong trào ở miền Nam lại đang trong cảnh “nước sôi lửa
bỏng”, không thể chờ đợi hơn được nữa, hai đồng chí Phan Văn Đáng và Phạm Văn
Xô đã xin về Nam. Đồng chí Lê Duẩn đã bố trí cho hai đồng chí tới chào Bác Hồ
và nhắc: “Cứ nói hết tình hình miền Nam với Bác”(7). Trong cuộc gặp lịch sử
này, Bác đã căn dặn hai đồng chí: “Các chú về báo cáo với Xứ ủy: nhất định
không để cho địch tiêu diệt lực lượng cách mạng ở miền Nam. Một cấp ủy phải vừa
có trách nhiệm với cấp trên; vừa phải có trách nhiệm với bên dưới mới đúng,
thường người ta chỉ nhấn mạnh trách nhiệm với trên là không đúng. Trung ương ở
xa, Xứ ủy vừa có trách nhiệm với Trung ương, vừa phải có trách niệm với Đảng bộ
và nhân dân miền Nam”(8). Hai đồng chí đã trao đổi hai ngày với
đồng chí Lê Duẩn trước khi trở lại chiến trường Nam Bộ. Đồng chí Lê Duẩn nhắn
nhủ: “Bác nói thế rồi. Vậy các anh về báo cáo với Xứ ủy cứ thế mà làm!”(9).
Trong thời gian sau Hiệp định
Genève năm 1954, tình hình quốc tế và trong nước đều có nhiều khó khăn và trở
ngại. Ở Liên Xô nổi lên vấn đề “xét lại” và chủ trương “thi đua hòa bình” với
Mỹ, lo ngại “một đốm lửa nhỏ” có thể gây “cháy rừng” - bùng lên thành chiến
tranh lớn. Trung Quốc thì ủng hộ “trường kỳ mai phục”. Những quan điểm này đã
tác động tới ta. Có ý kiến cho rằng: “Chúng ta kiên quyết đấu tranh lâu dài để
thực hiện thống nhất nước nhà. Đó cũng tức là cuộc thi đua hòa bình giữa chế độ
chính trị của miền Bắc và chế độ chính trị của miền Nam ở
trong phạm vi một nước, đi đôi với cuộc thi đua hòa bình ở trên thế giới giữa
chế độ xã hội chủ nghĩa và chế độ tư bản chủ nghĩa”(10). Trong thư “Gửi anh
Mười Cúc và các đồng chí Nam Bộ ngày 7-2-1961”, đồng chí Lê Duẩn nhắc lại: “Hồi
ấy, có đồng chí đề nghị không nên đấu tranh vũ trang vì sợ rằng dùng lực lượng
vũ trang sẽ có hại cho việc đấu tranh đòi các quyền tự do, dân chủ. Nhưng tôi
đã trình bày, đã nói rõ sự cần thiết phải xây dựng lực lượng vũ trang”(11).
Vào tháng 12-1958, đồng chí
Nguyễn Văn Linh - Bí thư Xứ ủy Nam Bộ đã nhận được đơn thư của hàng chục lão
nông tỉnh Thủ Dầu Một chất vấn: “Xứ ủy có báo cáo để Bác Hồ và Trung ương biết
tình hình miền Nam hay không mà chịu khoanh tay, để địch đàn áp bừa bãi, muốn
giết ai chúng chỉ cần vu cho người đó là cộng sản”(12). Nhân dân xã Hòa Hội,
tỉnh Tây Ninh đã ký tên vào bức tâm thư gửi lên Bác Hồ báo cáo: “Nhân dân bị
khủng bố, cán bộ bị giết hại, xin cho bộ đội miền Nam tập kết ra Bắc trở về
đánh giặc, cứu dân”(13). Trong một cuộc mít tinh, có cụ già nghẹn ngào, uất ức
nói với đồng bào: “Bác Hồ ơi! Mỹ - Diệm nó ác độc quá
lắm rồi. Bác cho phép đồng bào bắn nát đầu chúng nó”(14).
Lật lại Biên niên sử của Đảng,
có thêm một sự kiện đáng lưu ý là: sau khi BCHTƯ đã có “Thông cáo HNTƯ15 (mở
rộng) của Đảng Lao động Việt Nam về kiểm điểm tình hình và đề ra nhiệm vụ đấu
tranh thực hiện thống nhất nước nhà” - đăng trên báo Nhân Dân ngày
14-5-1959, nhưng Nghị quyết Trung ương 15 vẫn chưa được phổ
biến kịp thời cho Xứ ủy Nam Bộ để quán triệt và thực hiện, trong khi kẻ địch
đang khủng bố những người yêu nước kháng chiến rất tàn bạo theo đạo luật phát
xít - Luật 10/59 được Ngô Đình Diệm ban hành từ tháng 5-1959.
Từ yêu cầu của thực tiễn phong
trào và từ tinh thần của bản “Đề cương cách mạng miền Nam”,
trong các ngày 4, 17, 25-6-1959, Xứ ủy Nam Bộ
đã liên tiếp điện gửi BCHTƯ Đảng, báo cáo về tình hình địch tăng cường khủng bố
ở Tây Nam Bộ và khẳng định: “Sự đàn áp khốc liệt của địch làm cho
nhân dân Nam Bộ không còn con đường nào khác phải vùng lên chống lại đế quốc Mỹ
và tay sai”(15).
Ngày
25-9-1959, Bộ Chính trị đã gửi điện trả lời Xứ ủy Nam Bộ một số vấn đề,
trong đó có chỉ đạo: “…2. Quá trình giải phóng dân tộc phải tiến
lên đấu tranh vũ trang, nhưng hiện nay chưa phải là phát động chiến tranh du
kích, dù là cục bộ…”(16). Nhưng thực tiễn phong trào cách mạng
sinh động ở miền Nam đã diễn ra theo logic khác. Đó là logic “tồn tại hay không
tồn tại” dưới sự lãnh đạo và chỉ đạo sát sao của Xứ ủy Nam Bộ. Nhớ lời Bác và
đồng chí Lê Duẩn căn dặn theo truyền đạt của hai đồng chí Phạm Văn Xô và Phan
Văn Đáng khi xin về Nam sau đợt họp đầu tiên của HNTƯ15 nhưng chưa có kết quả,
tập thể Xứ ủy Nam Bộ đứng đầu là Bí thư Nguyễn Văn Linh đã nêu cao tinh thần
dám chịu trách nhiệm trước Đảng và trước nhân dân, chủ động và sáng tạo, một
mặt tiếp tục báo cáo, kiến nghị với Trung ương về chủ trương đấu tranh vũ
trang, mặt khác, luôn bám sát cơ sở để chỉ đạo phong trào quần chúng đấu tranh
với địch.
Một trong các trận đánh tiêu
biểu là ngày 26-9-1959, tiểu đoàn 502 và đại đội
Bảy Phú có tăng cường một tổ của đại đội Năm Bình - bộ đội địa phương của tỉnh
Kiến Phong đã đánh thắng một cuộc hành quân càn quét cấp trung đoàn của địch
vào Giồng Thị Đam và Gò Quản Cung là những địa điểm nằm sâu trong vùng Đồng
Tháp Mười, giáp ranh hai quận Hồng Ngự và Thanh Bình, tiêu diệt 12 tên, bắt
sống 105 tên, thu 7 trung liên, 120 tiểu liên, 12 máy bộ đàm và nhiều đạn dược.
Chiến thắng này đã cổ vũ nhân dân Trung Nam Bộ nổi dậy Đồng khởi. “Tức nước vỡ
bờ”, quân và dân ở nhiều địa phương Nam Bộ đã vùng lên, kết hợp đấu tranh chính
trị với đấu tranh vũ trang, chống địch càn quét, phá tan bộ máy ngụy quyền ở cơ
sở, giành quyền làm chủ và xây dựng căn cứ địa cách mạng.
Ngày
11-10-1959, Xứ ủy Nam Bộ lại điện gửi BCHTƯ Đảng kiến nghị phát động đấu tranh
vũ trang, duy trì và mở rộng căn cứ địa cách mạng. Xứ ủy đề nghị:
“- Đề nghị xem lại ý kiến trong bức điện trước của Trung
ương cho rằng: “Hiện nay chưa phải là phát động du kích chiến tranh dù phát
động cục bộ”. Xứ ủy cho rằng nên phát động đấu tranh vũ trang ngay.
- Đề nghị tổ chức cuộc họp giữa
Xứ ủy Nam Bộ và Liên khu ủy Khu V để trao đổi tiến hành kế hoạch phối hợp hoạt
động cho ăn khớp… Nếu Trung ương Đảng xúc tiến việc lập Trung ương Cục miền Nam
để lãnh đạo đấu tranh thì tốt nhất.
- Đề nghị Trung ương Đảng bổ sung gấp cho Nam Bộ một số cán bộ
quân sự…”(17).
Thực tế sau này đã cho thấy đó
là những đề nghị hết sức kịp thời, sáng suốt, đầy trách nhiệm trước Đảng và
sinh mạng của nhân dân, đồng thời có tính khả thi rất cao. Nhưng ngày 20-10-1959,
Ban Bí thư Trung ương Đảng đã ra chỉ thị về phương hướng công tác trước mắt của
Đảng Bộ Nam Bộ, trong đó nhấn mạnh: “…chủ yếu là cố gắng giữ phong trào, tiếp
tục lấy đấu tranh chính trị của quần chúng làm căn bản để chống chính sách
khủng bố tàn bạo và âm mưu chuẩn bị chiến tranh của địch… Hạn chế của Trung
ương Đảng là vẫn chủ trương giới hạn hoạt động của
lực lượng vũ trang chỉ có tính chất “chiến thuật nhất thời”, coi là “sai lầm”
nếu mở rộng hoạt động vũ trang”(18).
Ngày 24-10-1959, Xứ ủy
Nam Bộ đã có hai bức điện liên tiếp gửi
BCHTƯ Đảng báo cáo tình hình phong trào đấu tranh ở miền Tây Nam Bộ và tiếp
tục đề nghị đấu tranh vũ trang ở miền Nam. Xứ ủy đã nêu rõ: “…
Địch tập trung quần chúng chứng kiến những cuộc tra tấn, hành quyết những người
cách mạng bằng các hình thức khủng khiếp như mổ bụng, moi gan, cắt từng đoạn
ruột, lóc thịt, móc mắt… để uy hiếp tinh thần nhân dân. Ở Long Mỹ chúng đem máy
chém để giết người không cần xét xử… Những đợt khủng bố dồn dân, đuổi nhà, cướp
đất đã làm hàng ngàn người dân vô tội bị chết, ruộng đất bị bỏ hoang dẫn đến
nạn đói trầm trọng trong nhân dân…
Trong 6 tháng đấu năm 1959, có
tất cả 3.475 cuộc đấu tranh tương đối tập trung…, số cuộc đấu tranh chống khủng
bố gấp đôi số cuộc đấu tranh suốt năm 1958.
Chính sách độc tài phát xít của Mỹ - Diệm
làm cho phong trào cách mạng bị thiệt hại nặng nề. Chậm nổi dậy đấu tranh ngày
nào, cách mạng sẽ bị thiệt hại thêm ngày đó. Yêu cầu nổi dậy đấu tranh vũ trang
của quần chúng vô cùng bức xúc.
Chính vì vậy, Xứ
ủy Nam Bộ tiếp tục đề nghị Trung ương Đảng khẩn trương nghiên cứu tình hình,
cho phép đấu tranh vũ trang. Chỉ có như vậy mới bảo vệ được lực lượng cách mạng
miền Nam và chuyển từ thế bị động sang thế chủ động, mới có thể đánh bại được
kẻ thù hung ác, tàn bạo”(19).
Tuy nhiên phải tới 20 ngày sau - ngày 14-11-1959, Ban
Bí thư Trung ương Đảng mới điện toàn văn Nghị quyết HNTƯ15 cho Xứ ủy Nam Bộ.
Sau đó, giữa tháng 11-1959, Xứ ủy Nam Bộ triệu tập Hội nghị lần thứ tư tại vùng
căn cứ Trảng Chiêng, Tây Ninh do đồng chí Nguyễn Văn Linh chủ trì, nhằm quán
triệt nghị quyết của Trung ương đối với cách mạng miền Nam(20).
Từ tiến trình khách quan của
các sự kiện lịch sử, có thể thấy hai sự chậm trễ: chậm trễ kéo dài gần ba năm
(tính từ tháng 7-1956 khi Mỹ - Diệm hủy bỏ tổng tuyển cử) mới đi tới Nghị quyết
15 (tháng 5-1959) và chậm trễ kéo dài 6 tháng (từ tháng 5 tới tháng 11) mới phổ
biến nghị quyết này cho Xứ ủy Nam Bộ. Sự chậm trễ trong chuyển hướng chỉ đạo
chiến lược cách mạng ở miền Nam có nhiều nguyên nhân, trong đó có “nhận thức mơ
hồ về bản chất của chủ nghĩa đế quốc, cũng như các vấn đề về chiến tranh và hòa
bình, vai trò của vũ khí hạt nhân, chung sống hòa bình, thi đua kinh tế, quá độ
hòa bình v.v…; có tư tưởng hòa bình chủ nghĩa…, có lúc lặp lại hoặc phổ biến tư
tưởng sai lầm của chủ nghĩa xét lại”(21). Chỉ trong 4 năm (1955-1958), 9/10 số
cán bộ, đảng viên đã bị tổn thất. Riêng Nam Bộ chỉ còn 5.000 đảng viên so với
60.000 đảng viên trước đó. Ở đồng bằng Liên khu V, có khoảng 40% tỉnh ủy viên,
60% huyện ủy viên, 70% chi ủy viên bị địch giết hại, 12 huyện không còn cơ sở
Đảng(22). Tính riêng ở hai tỉnh Cần Thơ và Sóc Trăng, trong ba năm từ 1957 đến
1959, gần một vạn cán bộ, đảng viên đã bị giết, tù đày. Ở Bến Tre, 17.000 người
bị bắt, tù đày và bị đánh đập đến tàn phế, 100 cán bộ bị thủ tiêu bí mật. Có
nhiều xã không còn chi bộ Đảng, nhiều xã chỉ còn một vài đảng viên. Tại trại
giam Phú Lợi ở Thủ Dầu Một có 6.000 người, kẻ thù đã đầu độc làm cho 1.000
người chết ngay, 4.000 người bị trúng độc nặng(23).
Tuy có sự chậm trễ, nhưng Nghị
quyết Trung ương 15 khóa II đã đáp ứng được nhu cầu thực tiễn của cách mạng
miền Nam và nhanh chóng biến thành Phong trào Đồng khởi rộng khắp, tạo ra bước
phát triển mới làm thất bại từng bước cuộc “Chiến tranh đặc biệt” của Mỹ ở miền
Nam và do đó đã tạo đà cho các thắng lợi tiếp theo của cuộc kháng chiến chống
Mỹ cứu nước. Để tiếp tục khẳng định tầm vóc lịch sử của nghị quyết này, “Thông
báo về các kết luận Hội nghị lần thứ ba Ban chấp hành Trung ương Đảng khóa
VIII” tháng 7-1997 đã chỉ rõ: “Nghị quyết 15 của Trung ương
khóa II là sản phẩm trí tuệ của toàn Đảng, của tập thể Ban Chấp hành Trung ương
Đảng và Bộ Chính trị khóa II, xuất phát từ những định hướng chiến lược đầu tiên
của Chủ tịch Hồ Chí Minh từ tháng 7-1954 khi hòa bình vừa mới lập lại trên một
nửa đất nước, có sự trực tiếp chỉ đạo công phu của đồng chí Lê Duẩn, quyền Tổng
Bí thư lúc bấy giờ, cùng một số đồng chí trong Bộ Chính trị và trong Trung
ương. Nghị quyết phản ánh đúng nguyện vọng của đồng bào, đồng chí ở miền Nam
nước ta lúc đó”(24).
55 năm
đã trôi qua, nhưng bài học về Nghị quyết 15 khóa II của BCHTƯ Đảng vẫn giữ
nguyên ý nghĩa thời sự cho công cuộc xây dựng và bảo vệ Tổ quốc hôm nay. Đó là
tư duy cách mạng tiến công, độc lập tự chủ và sáng tạo, “việc gì có lợi cho dân
phải hết sức làm, việc gì có hại cho dân phải hết sức tránh... Trước hết phải
yêu dân, phải đặt quyền lợi của dân trên hết thảy, phải có một tinh thần chí
công vô tư”(25). Đó là bản lĩnh cách mạng kiên cường dám vượt lên sự chèn ép,
lôi kéo và chi phối của các nước lớn trong ván bài lợi ích và cạnh tranh chiến
lược giữa họ với nhau. Đảng lãnh đạo cũng “như người cầm lái, phải chèo chống
thế nào để đưa chiếc thuyền Tổ quốc vượt khỏi những cơn sóng gió, mà an toàn đi
đến bến bờ hạnh phúc của nhân dân”(26). Để làm được điều đó, phải thường xuyên
nâng cao cảnh giác và kiên quyết đấu tranh “khắc phục những khuynh hướng sai
lầm hữu và “tả” trong nội bộ Đảng”(27). Đồng thời phải thực hiện nghiêm chỉnh
lời dạy của Bác Hồ: “Tuyệt đối trung thành và thật thà với Đảng, không giấu
diếm, xuyên tạc sự thật và cũng không dung túng cho ai giấu diếm, xuyên tạc sự
thật với Đảng”(28).
(1) Đảng Cộng sản Việt Nam: Văn kiện Đảng
toàn tập, NXB CTQG, HN, 2002, t.20, tr.82.
(2) Viện Hồ Chí Minh và các lãnh tụ Đảng:
Lê Duẩn và Cách mạng Việt Nam, NXB CTQG, HN, 2007, tr.68.
(3) Hồ Chí Minh: Toàn tập,
t.7, NXB CTQG, HN, 1996, tr.272.
(4) Cuộc kháng chiến chống Mỹ, cứu nước:
Những mốc son lịch sử, NXB CTQG, HN, 2010, tr. 557.
(5) Viện Hồ Chí Minh và các lãnh tụ Đảng:
Lê Duẩn và Cách mạng Việt Nam, NXB CTQG, HN, 2007, tr.221.
(6) Lịch sử biên niên Xứ ủy Nam Bộ và
Trung ương Cục miền Nam (1954-1975), NXB CTQG, HN, 2008, tr.197.
(7) Viện Hồ Chí Minh và các lãnh tụ Đảng:
Lê Duẩn và Cách mạng Việt Nam, NXB CTQG, HN, 2007, tr.69.
(8) Lịch sử biên niên Xứ ủy Nam Bộ và
Trung ương Cục miền Nam (1954-1975), NXB CTQG, HN, 2008, tr.203 (TG
in đậm).
(9) Viện Hồ Chí Minh và các lãnh tụ Đảng:
Lê Duẩn và Cách mạng Việt Nam, NXB CTQG, HN, 2007, tr.69.
(10) Báo Nhân Dân, ngày 12-7-1956,
tr.3.
(11) Lê Duẩn: Thư vào Nam, NXB
QĐND, HN, 2005, tr.8 (Mười Cúc là đồng chí Nguyễn Văn Linh).
(12), (13) Lịch sử biên niên Xứ ủy Nam Bộ và
Trung ương Cục miền Nam (1954-1975), NXB CTQG, HN, 2008, tr.190.
(14) Lịch sử biên niên Xứ ủy Nam Bộ và
Trung ương Cục miền Nam (1954-1975), NXB CTQG, HN, 2008, tr.191 (TG
in đậm).
(15) Lịch sử biên niên Xứ ủy Nam Bộ và
Trung ương Cục miền Nam (1954-1975), NXB CTQG, HN, 2008, tr.208-209
(TG in đậm).
(16) Lịch sử biên niên Xứ ủy Nam Bộ và
Trung ương Cục miền Nam (1954-1975), NXB CTQG, HN, 2008, tr.210-211
(TG in đậm).
(17) Lịch sử biên niên Xứ ủy Nam Bộ và
Trung ương Cục miền Nam (1954-1975), NXB CTQG, HN, 2008, tr.212-215
(TG in đậm).
(18) Lịch sử biên niên Xứ ủy Nam Bộ và
Trung ương Cục miền Nam (1954-1975), NXB CTQG, HN, 2008, tr.216-218
(TG in đậm).
(19) Lịch sử biên niên Xứ ủy Nam Bộ và
Trung ương Cục miền Nam (1954-1975), NXB CTQG, HN, 2008, tr.218-221
(TG in đậm).
(20) Lịch sử biên niên Xứ ủy Nam Bộ và
Trung ương Cục miền Nam (1954-1975), NXB CTQG, HN, 2008, tr.223.
(21) Văn kiện Đảng toàn tập,
NXB CTQG, HN, 2003, tr.782.
(22) Phong trào Đồng khởi - 50 năm nhìn lại, NXB CTQG, HN, 2010, tr.7.
(22) Phong trào Đồng khởi - 50 năm nhìn lại, NXB CTQG, HN, 2010, tr.7.
(23) Cuộc kháng chiến chống Mỹ, cứu nước:
Những mốc son lịch sử, NXB CTQG, HN, 2010, tr.483.
(24) Cuộc kháng chiến chống Mỹ, cứu nước:
Những mốc son lịch sử, NXB CTQG, HN, 2010, tr.485.
(25) Hồ Chí Minh: Toàn tập,
t.4, NXB CTQG, HN, 2009, tr.47-48.
(26) Hồ Chí Minh: Toàn tập,
t.4, NXB CTQG, HN, 2009, tr.165.
(27) Văn kiện Đảng toàn tập,
NXB CTQG, HN, 2003, tr.779.
(28) Hồ Chí Minh: Toàn tập,
t.11, NXB CTQG, HN, 1996, tr.203.
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét
Chào bạn! Nếu bạn quan tâm vấn đề nêu ra, hãy để lại bình luận. Mỗi nhận xét của bạn dù đồng thuận hay không cũng sẽ góp phần cho trang này ngày được hoàn thiện hơn