TP - Năm 1957, cách đây đúng nửa thế kỷ, hai
ông Hoàng Tùng và Trần Quang Huy được Bác Hồ và Bộ Chính trị trao trọng trách
chấp bút bản Dự thảo Nghị quyết Trung ương 15 (Khóa hai) dưới sự chỉ đạo trực
tiếp của Đại tướng Võ Nguyên Giáp.
Nhà
cách mạng lão thành Hoàng Tùng (bên trái) đang trả lời phỏng vấn của nhà nghiên cứu Nhật Hoa Khanh (tháng 1/2007) |
Sinh năm 1919 tại Nam
Định, nhà giáo Hoàng Tùng hoạt động cách mạng từ 1937 và bị tù tại Sơn La, Nam
Định và Hỏa Lò (Hà Nội). Ông đã từng giữ các trọng trách: Bí thư Trung ương
Đảng,Phó trưởng ban Tổ chức Trung ương Đảng, Tổng Biên tập báo Nhân Dân, Trưởng
ban Tuyên huấn Trung ương, Chủ tịch Hội Nhà báo Việt Nam.
Năm 1957, cách đây đúng nửa thế kỷ, hai ông
Hoàng Tùng và Trần Quang Huy được Bác Hồ và Bộ Chính trị trao trọng trách chấp
bút bản Dự thảo Nghị quyết Trung ương 15 (Khóa hai) dưới sự chỉ đạo trực tiếp
của Đại tướng Võ Nguyên Giáp.
Chiều 18 /1/ 2007, tại nhà riêng ông Hoàng
Tùng ở Hà Nội, nhà nghiên cứu Nhật Hoa Khanh được ông Hoàng Tùng kể lại sự kiện
đặc biệt quan trọng nói trên.
Ngay sau chiến thắng lịch sử Điện Biên Phủ
(tháng 5 /1954) chấn động toàn cầu, khi Đại tướng Võ Nguyên Giáp trở về căn cứ
địa Việt Bắc báo cáo chiến công với Bác Hồ và Ban Thường vụ Trung ương Đảng,
Bác Hồ đã nói một câu có tầm nhìn xa và tầm chiến lược: NHÂN DÂN TA CÒN PHẢI
TIẾP TỤC CHỐNG MỸ.
Cũng dịp đó, trong bối cảnh quốc tế vô cùng
phức tạp và hết sức bất lợi đối với ta, mặc dầu phải chịu sức ép
rất nặng nề từ nhiều phía, Bác Hồ và Tổng Bí thư Trường Chinh cùng tất cả
các thành viên khác trong Ban Thường vụ Trung ương Đảng (tức Bộ Chính trị) đã
hết sức sáng suốt, kịp thời và chủ động chấp nhận việc ký kết Hiệp định
Giơ-ne-vơ với điều kiện vô cùng khắc nghiệt: tạm thời chia cắt nước ta làm đôi,
ranh giới là vĩ tuyến 17.
Sau khi Hiệp định Giơ-ne-vơ (tháng 7/1954)
được ký kết, trong các hội nghị Trung ương và các cuộc họp Hội đồng Chính phủ,
Chủ tịch Hồ Chí Minh đều nhấn mạnh Ý CHÍ VÀ THIỆN CHÍ hòa BÌNH CỦA TOÀN THỂ DÂN
TỘC VIỆT NAM.
Từ năm 1950, đế quốc Mỹ bắt đầu can thiệp và
can thiệp ngày càng sâu vào chiến tranh Việt Nam. Ngay sau Hiệp định Giơ-ne-vơ,
Mỹ càng can thiệp vào Việt Nam mạnh hơn nữa và bắt đầu từng bước tiến hành một
cuộc chiến tranh đơn phương ở miền Nam nước ta. Từ 1957 đến 1958, 1959, Mỹ –
Diệm công khai dùng máy chém và súng đạn liên tiếp giết hại dã man nhiều người
kháng chiến còn ở lại miền Nam không tập kết ra Bắc. Vì vậy, một bộ phận nhân
dân miền Nam buộc phải nổi dậy chống Mỹ – Diệm ngay từ những tháng năm đau
thương ấy.
Trong vấn đề này, có công lao to lớn của các
tổ chức Đảng ở miền Nam và của anh Lê Duẩn, người lãnh đạo cao nhất ở Nam Bộ
thời kỳ đó.
Với Điện Biên Phủ và Hiệp định Giơ-ne-vơ, cuộc
kháng chiến chống Pháp giành được thắng lợi vĩ đại, Hà Nội và nửa phía Bắc của
Tổ quốc được hoàn toàn giải phóng.
Mặc dầu khi ấy khó khăn chồng chất khó khăn,
Thủ đô Hà Nội nói riêng và miền Bắc nói chung vẫn nhanh chóng trở thành căn cứ
địa toàn diện và hùng mạnh của toàn bộ cuộc chống Mỹ cứu nước. Hà Nội và miền
Bắc giành hết sức người, sức của, trí tuệ và vũ khí, thuốc men, lương thực… vào
miền Nam cùng nhân dân miền Nam đấu tranh giải phóng miền Nam – thống nhất nước
nhà.
Vẫn trong một bối cảnh quốc tế vô cùng phức
tạp và hết sức bất lợi cho ta như tôi đã nói ở trên, từ rừng núi Việt Bắc trở
về Thủ đô Hà Nội sau 9 năm kháng chiến cực kỳ gian khổ và anh dũng, Đảng, Chính
phủ và Bác Hồ phải giải quyết vô số vấn đề trọng yếu. Khó khăn càng tăng khi
cải cách ruộng đất phạm sai lầm nghiêm trọng, Tổng Bí thư Trường Chinh phải từ
chức.
Giữa tình hình trong nước rối bời như vậy, Bác
Hồ tạm thời giữ chức Tổng Bí thư. Hai đồng chí Võ Nguyên Giáp và Nguyễn Duy
Trinh được Bộ Chính trị trao trách nhiệm giúp Tổng Bí thư Hồ Chí Minh giải
quyết công tác hàng ngày.
Tháng 5/1955, ngay sau khi miền Bắc được hoàn
toàn giải phóng, đường giải phóng mới đi một nửa, toàn dân Việt Nam ai nấy đều
mong muốn giải phóng miền Nam – thống nhất đất nước. Nhưng giải phóng miền Nam
– thống nhất đất nước theo đường lối nào và bằng phương pháp nào, đó là cả một
vấn đề trọng đại và vô cùng phức tạp mà thực tế lịch sử đặt ra cho dân tộc Việt
Nam và Đảng Cộng sản Việt Nam. Để giải quyết vấn đề này, phải có trí tuệ tập
thể, phải bàn luận thật kỹ lưỡng và thật thận trọng.
Vì vậy, khoảng đầu năm 1957, Bộ Chính trị,
đứng đầu là Bác Hồ, quyết định chuẩn bị hai việc lớn:
Một: Triệu tập Hội nghị Trung ương 15 (Khóa
hai) mở rộng để bàn luận và quyết định đường lối và phương pháp cách mạng giải
phóng miền Nam.
Hai: Triệu tập Đại hội đại biểu toàn quốc lần
thứ ba của Đảng để bàn luận và quyết định đường lối xây dựng và phát triển miền
Bắc làm cơ sở cho cuộc cách mạng giải phóng miền Nam.
Việc chỉ đạo chấp bút bản dự thảo Nghị quyết
Hội nghị Trung ương 15 (Khóa hai) được Bộ Chính trị giao cho Đại tướng Võ
Nguyên Giáp.
Hai người giúp anh Võ Nguyên Giáp chấp bút bản
dự thảo đó, cũng do Bộ Chính trị chỉ định, gồm Trần Quang Huy (lúc ấy là Chánh
Văn phòng Trung ương Đảng, Phó ban thường trực Ban Tuyên huấn Trung ương) và
tôi (tức Hoàng Tùng, lúc ấy là Tổng Biên tập báo Nhân Dân, Phó ban Ban Tuyên
huấn Trung ương).
Mùa hè 1957, từ Hà Nội, Đại tướng Võ Nguyên
Giáp và tôi cùng Trần Quang Huy xuống Đồ Sơn (Hải Phòng), làm việc trong khu
nghỉ mát Pa-gốt-đông nổi tiếng. Tại đây, chúng tôi làm việc mấy đợt, mỗi đợt
gồm nhiều buổi.
Mở đầu buổi làm việc đầu tiên, đồng chí Võ
Nguyên Giáp đã đặc biệt nhắc nhở Trần Quang Huy và tôi phải thấm nhuần ý tưởng
NHÂN DÂN TA CÒN PHẢI TIẾP TỤC CHỐNG MỸ và ý tưởng TRANH THỦ MỌI THỜI CƠ ĐỂ Hòa
BÌNH THỐNG NHẤT NƯỚC NHÀ của Bác Hồ. Đó chính là ánh sáng chỉ đạo toàn bộ quá
trình chấp bút bản dự thảo. Anh Võ Nguyên Giáp nhắc chúng tôi như vậy.
Do phong cách làm việc dân chủ vốn có, anh Võ
Nguyên Giáp thường chủ động mời hai chúng tôi phát biểu trước, rồi sau đó, anh
mới trình bày ý kiến của mình. Chính vì vậy, tại Đồ Sơn, trong quá trình soạn
thảo, khi hai chúng tôi được anh hỏi ý kiến thì tôi đã nêu lên hai vấn đề cơ
bản của Dự thảo Nghị quyết 15 (Khóa hai).
Thứ nhất: Sử dụng phương pháp đấu tranh vũ
trang, đấu tranh bằng bạo lực cách mạng. Chúng ta buộc phải sử dụng phương pháp
này bởi vì Mỹ _ Diệm ngày càng tăng cường lùng sục và giết hại những người
kháng chiến cũ ở miền Nam và luôn miệng hô hào “Bắc tiến”.
Về vấn đề thứ nhất, Trần Quang Huy cũng suy
nghĩ như tôi.
Thứ hai: Tập hợp sức mạnh toàn thể dân tộc để
giải phóng miền Nam, thống nhất đất nước.
Về vấn đề thứ hai, tôi trình bày với Đại tướng
như sau: Ở Việt Nam, cần phải tập trung thực hiện nhiệm vụ thống nhất
toàn thể dân tộc, đoàn kết toàn thể dân tộc hơn là thực hiện một cuộc đấu tranh
giai cấp. Muốn giải phóng miền Nam, ngoài việc thực hiện phương pháp đấu tranh
vũ trang, phải thống nhất toàn thể dân tộc, tập hợp toàn thể dân tộc, đoàn kết
toàn thể dân tộc theo đúng tư tưởng Bác Hồ.
Đồng chí Võ Nguyên Giáp hoàn toàn nhất trí với
hai vấn đề cơ bản nêu ở trên.
Tuy nhiên, cũng cần nói rõ: trước khi được
biết ý kiến nói trên của tôi, chính Đại tướng Võ Nguyên Giáp, trong những cuộc
họp Trung ương hoặc Bộ Chính trị hoặc trong những cuộc trò chuyện với nhiều Ủy
viên Bộ Chính trị và Ủy viên Trung ương Đảng vào những năm 1955 _ 1956 và đầu
năm 1957 cũng đã từng khẳng định ý nguyện hoà bình của toàn dân, toàn Đảng,
đồng thời căn cứ vào thực tiễn Việt Nam và thực tiễn quốc tế, kiên trì và
chủ động đưa ra giải pháp đấu tranh vũ trang và giải pháp đoàn kết toàn thể dân
tộc, đấu tranh chính trị, đấu tranh ngoại giao để giải phóng miền Nam, thống
nhất đất nước.
Dưới sự chỉ đạo của anh Võ Nguyên Giáp, tôi và
Trần Quang Huy chấp bút thuận lợi bản Dự thảo Nghị quyết 15 (Khóa hai) vì cả ba
chúng tôi, nhất là đại tướng Võ Nguyên Giáp, đều hiểu thấu ý tưởng tranh
thủ mọi thời cơ để hoà bình thống nhất đất nước, ý tưởng đấu tranh vũ trang và
ý tưởng đoàn kết toàn dân, đấu tranh chính trị, đấu tranh ngoại giao của Bác
Hồ.
Tuy nhiên, việc chấp bút không phải không có khó
khăn. Trong quá trình nhiều lần chấp bút, khó khăn lớn nhất chính là ở
chỗ: phải viết như thế nào, phải phân tích như thế nào, phải lý giải như thế
nào, phải chứng minh như thế nào để khẳng định rằng:
1. Mặc dầu sức ép từ nhiều phía đối với Việt
Nam hết sức nặng nề, tình hình quốc tế vô cùng phức tạp, nội bộ phe xã hội chủ
nghĩa bất hòa ngày càng nghiêm trọng, Đảng ta vẫn phải tiếp tục giương cao ngọn
cờ độc lập và tự chủ, giữ vững vai trò lãnh đạo cuộc cách mạng giải phóng miền
Nam và thống nhất đất nước;
2. Mặc dầu toàn dân và toàn Đảng luôn luôn
tranh thủ các cơ hội hòa bình, nhưng trong tình hình thực tiễn nước sôi lửa
bỏng của miền Nam lúc đó, để giải phóng miền Nam và thống nhất đất nước, Đảng
ta buộc lòng phải sử dụng phương pháp đấu tranh vũ trang, đấu tranh quân sự kết
hợp với đấu tranh chính trị, đấu tranh ngoại giao, đoàn kết toàn dân trong một
cuộc cách mạng lâu dài và gian khổ.
Chính vì vậy, tôi và Trần Quang Huy phải viết
đi viết lại bản dự thảo nhiều lần. Lần nào, bản dự thảo, sau khi sửa chữa xong,
cũng được sao thành nhiều bản gửi lên Bác Hồ và từng Ủy viên Bộ Chính trị để
xin ý kiến. Lần nào cũng vậy, Bác Hồ và các thành viên khác của Bộ Chính trị
cũng đều góp ý kiến chu đáo. Bác Hồ luôn luôn góp cho bản dự thảo ý tưởng hòa
bình thống nhất nước nhà và ý tưởng đoàn kết toàn dân, kiên quyết đấu tranh giữ
vững hòa bình, chỉ vũ trang đấu tranh khi tình thế bắt buộc.
Tiếp nhận nghiêm túc ý kiến của Bác Hồ và của
các Ủy viên Bộ Chính trị, càng về sau, bản dự thảo càng trở nên đầy đủ
hơn; càng biểu hiện được rõ ràng hơn hai vấn đề cơ bản đấu tranh vũ trang
và đoàn kết toàn dân, đấu tranh chính trị, đấu tranh ngoại giao như trên
đã nói.
Khoảng cuối 1958, bản dự thảo cuối cùng do
đồng chí Võ Nguyên Giáp chỉ đạo tôi và Trần Quang Huy chấp bút được hoàn thành.
Như những lần trước, lần này, Văn phòng Trung
ương Đảng tiếp tục sao thành nhiều bản trình lên xin ý kiến Bác Hồ và từng Ủy
viên Bộ Chính trị. Sau đó, được tiếp tục sao gửi đến từng Ủy viên Trung ương.
Trong Đề cương, anh Lê Duẩn sớm nêu lên ý
tưởng sâu sắc sử dụng bạo lực cách mạng cùng với ý tưởng tập hợp toàn thể các
tầng lớp nhân dân, ý tưởng tổng khởi nghĩa giành chính quyền để giải phóng miền
Nam.
Lúc này, từ miền Nam, anh Lê Duẩn đã ra tới Hà
Nội. Sau một thời gian nghỉ ngơi, tìm hiểu tình hình thực tiễn miền Bắc và quốc
tế, đồng chí Lê Duẩn được Bác Hồ cùng Bộ Chính trị trao cho cương vị tương
đương Quyền Tổng Bí thư.
Khi bản dự thảo cuối cùng nói trên được chuyển
lên xin ý kiến Bác Hồ, Bác xem và cơ bản tán thành. Sau đó, Người chỉ thị:
chuyển chú Ba xem. (Ba là tên gọi thân mật của anh Lê Duẩn).
Chấp hành chỉ thị của Bác Hồ, đồng chí Lê Duẩn
xem và cơ bản nhất trí. Sau đó, anh Lê Duẩn gọi tôi và Trần Quang Huy đến giúp
anh viết một số ý kiến bổ sung vào bản dự thảo cuối cùng Nghị quyết Trung ương
lần thứ 15 (Khóa hai) nói trên. Trong quá trình bổ sung một số ý kiến vào bản
dự thảo cuối cùng này, đồng chí Lê Duẩn chỉ đạo tôi và Trần Quang Huy làm việc
nhiều lần ở Hà Nội, Đồ Sơn và lần cuối cùng ở Bãi Cháy (Quảng Ninh).
Nhân đây, tôi cũng muốn nhấn mạnh: trong quá
trình chấp bút dự thảo Nghị quyết 15 (Khóa Hai), cả Đại tướng Võ Nguyên Giáp và
hai chúng tôi đều hoàn toàn chưa được biết là tại cơ quan Xứ ủy Nam Bộ (số 290
Huỳnh Khương Ninh, Sài Gòn), từ khoảng cuối mùa khô 1955 đến tháng 8/1956, đồng
chí Lê Duẩn đã chủ động viết và cơ bản hoàn thành bản Đề cương cách mạng miền
Nam.
Chúng tôi cũng không được biết tháng 12/1956
và mấy tháng đầu năm 1957, tại Nông Pênh, bản Đề cương cách mạng miền Nam được
thảo luận kỹ (nhưng chưa được chính thức thông qua) trong Hội nghị Xứ ủy Nam Bộ
mở rộng. Do đó, cả anh Võ Nguyên Giáp và hai chúng tôi đều chưa được đọc bản Đề
cương ấy.
Trong Đề cương, anh Lê Duẩn sớm nêu lên ý
tưởng sâu sắc sử dụng bạo lực cách mạng cùng với ý tưởng tập hợp toàn thể các
tầng lớp nhân dân, ý tưởng tổng khởi nghĩa giành chính quyền để giải phóng miền
Nam.
Như vậy, giữa Đề cương cách mạng miền Nam của
đồng chí Lê Duẩn và dự thảo Nghị quyết 15 (Khóa hai) do Đại tướng Võ Nguyên
Giáp chỉ đạo tôi và Trần Quang Huy chấp bút có sự trùng hợp cơ bản về ý tưởng
dùng bạo lực cách mạng và ý tưởng tập hợp toàn thể dân tộc để giải phóng miền
Nam. Sự khác nhau giữa hai bản thuộc về lời văn và một vài vấn đề cụ thể.
Như trên tôi đã nói, từ miền Nam ra Hà Nội,
sau một thời gian tìm hiểu tình hình hết sức phức tạp của miền Bắc và tình hình
quốc tế cũng hết sức phức tạp thời đó, đồng chí Lê Duẩn được Bác Hồ và Bộ Chính
trị trao cho cương vị tương đương Quyền Tổng bí thư.
Từ đó, cho đến khoảng đầu năm 1959 trước khi
diễn ra Hội nghị Trung ương lần thứ 15 (Khóa hai), tinh thần cơ bản của Đề
cương cách mạng miền Nam của đồng chí Lê Duẩn đã lần lượt được chuyển, dưới
nhiều hình thức, đến các Ủy viên Bộ Chính trị cùng nhiều Ủy viên Trung ương và
phát huy tác dụng tích cực của nó.
Hội nghị Trung ương lần thứ 15 (Khóa hai) mở
rộng năm 1959, họp hai đợt tại Hà Nội vào mùa xuân và mùa hè, có tầm quan trọng
đặc biệt đối với vận mệnh của toàn thể dân tộc. Với tinh thần trách nhiệm rất
cao trước lịch sử, hội nghị tập trung thảo luận và tranh luận công khai, thẳng
thắn, dân chủ, không hạn chế thời gian và cuối cùng, ra Nghị quyết về vấn đề
trọng đại giải phóng miền Nam, thống nhất đất nước.
Là một trong những hội nghị lớn nhất của Trung
ương từ ngày thành lập Đảng tới nay (2007), Hội nghị Trung ương lần thứ 15
(Khóa hai) mở rộng nhằm góp phần chuẩn bị trực tiếp cho Đại hội toàn quốc lần
thứ ba (sẽ họp vào tháng 9 /1960).
Bác Hồ khai mạc và tổng kết hội nghị. Người
cũng trực tiếp chủ toạ hội nghị suốt hai đợt họp.
Tại hội nghị, Người đề nghị các đại biểu thẳng
thắn nêu rõ ý kiến của mình và thực hiện tranh luận dân chủ để đi tới sự nhất
trí cuối cùng. Người khẳng định: Hòa bình thống nhất nước nhà là nguyện vọng
tha thiết của toàn dân, vì vậy, phải tranh thủ mọi thời cơ để thống nhất đất
nước một cách hoà bình. Vũ trang đấu tranh, theo lời Người, là điều mà toàn dân
ta buộc phải thực hiện một khi không có con đường nào khác.
Người nhắc nhở hội nghị cần nhận rõ quan điểm
xây dựng và phát triển miền Bắc làm cơ sở cho cuộc cách mạng giải phóng miền
Nam – thống nhất đất nước. Người cũng yêu cầu hội nghị phải hết sức chú trọng
các quan điểm đoàn kết, thực tiễn, độc lập, tự chủ, sáng tạo, kiên định, dân
chủ và dân tộc.
Trong hội nghị, Người căn dặn Ban chấp hành
Trung ương phải có một đối sách đặc biệt tế nhị, khéo léo và mềm mỏng trước mọi
sức ép rất nặng nề từ nhiều phía trên thế giới đối với Đảng ta lúc đó.
Là đại biểu chính thức, tôi dự hội nghị suốt
từ đầu đến cuối, không sót buổi nào.
Tại Hội nghị Trung ương lần thứ 15 (Khóa hai)
mở rộng, trước một phiên họp toàn thể, đồng chí Võ Nguyên Giáp đọc bản dự thảo
cuối cùng (đã được đồng chí Lê Duẩn bổ sung một số ý kiến như trên đã nói). Bản
dự thảo này hiện vẫn được lưu giữ tại cơ quan lưu trữ Trung ương.
Dưới sự chủ tọa từ lúc khai mạc đến lúc bế mạc
của Bác Hồ, bản dự thảo cuối cùng nói trên đã được hội nghị thảo luận dân chủ
và tranh luận kỹ lưỡng, đồng thời bổ sung cẩn thận. Dưới sự chủ toạ của Bác Hồ,
hội nghị còn lắng nghe các báo cáo thực tế của các đại biểu Nam Bộ, Trung Bộ và
Nam Trung Bộ.
Từ miền Nam ra Hà Nội, hai anh Phan Văn Đáng
và Phạm Văn Xô thay mặt Xứ Ủy Nam Bộ báo cáo trước toàn thể hội nghị về tình
hình Nam Bộ từ sau Hiệp định Giơ-ne-vơ đến cuối 1958. Bác Hồ khóc mấy lần khi
hai anh kể lại sự đàn áp khốc liệt của Mỹ – Diệm đối với đồng bào và cán bộ,
chiến sĩ miền Nam.
Sau khi nghe hai anh Lê Duẩn và Trường Chinh
lần lượt trình bày ý kiến và quan điểm của mỗi người, Bác Hồ trực tiếp chỉ định
Đại tướng Võ Nguyên Giáp phát biểu.
Trong bài phát biểu của mình, đồng chí Võ
Nguyên Giáp khẳng định ý chí và thiện chí hoà bình của toàn thể dân tộc Việt
Nam, của Bác Hồ và toàn Đảng. Sau đó, căn cứ vào tình hình thực tiễn miền Nam,
miền Bắc và quốc tế, anh phân tích nhiều vấn đề trong đó có hai vấn đề lớn.
Một: Đường lối vũ trang. Theo đồngchí Võ Nguyên Giáp, đường lối vũ trang là cơ
bản nhất. Hai: miền Bắc. Theo đồngchí Võ Nguyên Giáp, Miền Bắc phải xây dựng và
phát triển thật sự vững mạnh làm cơ sở cho cuộc đấu tranh giải phóng miền Nam –
hoà bình thống nhất nước nhà.
Trong Hội nghị Trung ương lần thứ 15 (Khóa
hai) mở rộng, về tầm quan trọng của các bài phát biểu thì sau các diễn văn khai
mạc và bế mạc có vai trò chỉ đạo mọi mặt của Bác Hồ, ba bài phát biểu của các
đồng chí Lê Duẩn, Trường Chinh và Võ Nguyên Giáp là ba bài quan trọng nhất.
Không ít lần trong quá trình hội nghị thảo
luận và tranh luận, Bác Hồ đã nói: vấn đề càng ngày càng sáng.
Cuối đợt hai của hội nghị, Bác Hồ sáng suốt dự
đoán: Giai đoạn đấu tranh hoà bình thống nhất đất nước sớm muộn cũng sẽ căn bản
chấm dứt, giai đoạn toàn dân buộc phải cầm súng và toàn quân buộc phải trực
tiếp tham gia cuộc cách mạng giải phóng miền Nam chắc chắn sẽ bắt đầu.
Người yêu cầu toàn Đảng phải tiếp tục tay siết
chặt tay, đoàn kết thành một khối thống nhất để chuẩn bị lãnh đạo toàn dân tiến
hành cuộc kháng chiến lần thứ hai thể nào cũng bùng nổ: cuộc kháng chiến chống
Mỹ cứu nước.
Dưới sự điều hành điêu luyện, dân chủ và mẫu
mực của người thầy Hồ Chí Minh, cuối đợt hai của Hội nghị Trung ương 15 (Khóa
hai) mở rộng, bản dự thảo cuối cùng do đồng chí Võ Nguyên Giáp đọc trước hội
trường đã được toàn thể hội nghị bổ sung hết sức kỹ lưỡng và thận trọng, thể
hiện được ý nguyện của toàn dân, trở thành thành quả lớn của trí tuệ tập thể.
Nói một cách khác, rõ hơn, dưới sự điều khiển
điêu luyện, dân chủ và mẫu mực của người thầy Hồ Chí Minh, kết thúc hội nghị,
một thành quả lớn của trí tuệ tập thể mang tính đoàn kết, tính hoà bình, tính
thực tiễn, tính độc lập, tính tự chủ, tính chiến đấu, tính khoa học, tính
sáng tạo, tính kiên định, tính dân chủ và tính dân tộc đã ra đời.
Đó chính là Nghị quyết Trung ương 15 (Khoá
hai) mở rộng về ĐƯỜNG LỐI CHIẾN LƯỢC và PHƯƠNG PHÁP CÁCH MẠNG giải phóng miền
Nam – thống nhất đất nước.
Nghị quyết Trung ương 15 (Khóa hai) mở rộng
lập tức thật sự trở thành ngọn đèn pha soi đường cho cách mạng giải phóng miền
Nam dưới sự lãnh đạo của Đảng suốt từ đó (mùa hè 1959) đến 30/4/1975, ngày toàn
thắng.
Sau khi Bác Hồ qua đời, Bộ Thống soái Tối cao
đứng đầu là đồng chí Lê Duẩn đã lãnh đạo Quân uỷ Trung ương và Bộ Tổng tư lệnh
đứng đầu là đồng chí Võ Nguyên Giáp tiếp tục kiên định cuộc kháng chiến chống
Mỹ cứu nước 6 năm nữa và ngày 30/4/1975, đưa được lá cờ giải phóng dân tộc tới
đích cuối cùng.
Theo đề nghị của đồng chí Lê Duẩn, Bộ Chính trị
nhất trí cử đồng chí Lê Duẩn thay mặt toàn Đảng và đồng chí Võ Nguyên Giáp thay
mặt toàn quân ngày mùng 8/ 5/1975 vào thành phố Sài Gòn để chúc mừng đồng bào
và chiến sĩ miền Nam ngay sau khi miền Nam được hoàn toàn giải phóng.
Hình ảnh Bí thư Thứ nhất Lê Duẩn và Tổng
tư lệnh Võ Nguyên Giáp ngày mùng 8/5/1975 từ chuyên cơ bước xuống sân bay Tân
Sơn Nhất trước sự đón tiếp nồng nhiệt của Chủ tịch nước Tôn Đức Thắng và các
anh Nguyễn Hữu Thọ, Phạm Hùng, Lê Đức Thọ, Văn Tiến Dũng là hình ảnh tiêu biểu
cho sự lãnh đạo thống nhất của Đảng đối với quân đội và sự trung thành của quân
đội đối với Đảng. Hình ảnh đó nói lên vị trí quan trọng bậc nhất của hai anh Lê
Duẩn và Võ Nguyên Giáp trong 6 năm cuối cùng của cuộc chống Mỹ cứu nước
sau khi Bác Hồ qua đời.
*
* * *
Đúng 19 giờ. Trời đổ tối. Nhà cách mạng 88
tuổi Hoàng Tùng ngừng lời.
Dáng gầy yếu nhưng gương mặt vẫn tươi tỉnh,
trong gió đông khá lạnh, ông tiễn tôi ra cửa phòng và siết chặt tay tôi ...
Hà Nội, 18 tháng
Giêng 2007
Hoàng Tùng kể
Nhật Hoa
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét
Chào bạn! Nếu bạn quan tâm vấn đề nêu ra, hãy để lại bình luận. Mỗi nhận xét của bạn dù đồng thuận hay không cũng sẽ góp phần cho trang này ngày được hoàn thiện hơn