Thứ Ba, 11 tháng 9, 2018

Tư liệu: Một bức thư của Võ Đại tướng gửi ông Lê Đức Thọ


(St từ http://www.honvietquochoc.com.vn)
Nhân dịp kỷ niệm 40 năm chiến thắng mùa Xuân 1975 và thống nhất đất nước, Thiên Lý xin trân trọng giới thiệu với bạn đọc một tư liệu quý: bức thư của cố Đại tướng Võ Nguyên Giáp gửi ông Lê Đức Thọ, đề ngày 20-2-1988
Bức thư gồm hơn bốn trang đánh máy, nội dung trao đổi một số vấn đề liên quan đến việc tổng kết chiến tranh và biên soạn lịch sử quân sự, (lúc bấy giờ có tổ chức hội thảo tổng kết cuộc kháng chiến chống Mỹ, cứu nước) thư này cũng được gửi cho ông Viện trưởng Viện lịch sử quân sự, để lưu.
Hy vọng qua bức thư này, bạn đọc có thể hiểu biết sâu sắc hơn về nhân cách, về  trí tuệ và tầm nhìn chiến lược của cố Đại tướng, đồng thời cũng có thể hiểu thêm về vài sự kiện lịch sử thú vị khác như Nghị quyết 15 được phôi thai ra sao, nguồn gốc chiến dịch Quảng Trị mùa Hè 1972 hoặc vấn đề lựa chọn điểm mở màn cho chiến dịch Hồ Chí Minh lịch sử (Buôn Ma Thuột) đã được đặt ra từ năm nào? Qua mục đầu của bức thư này, ta cũng có thể biết thái độ của nước bạn (Trung Quốc) về vấn đề Hiệp định Giơ-ne-vơ (hoàn toàn không phải là “chủ chiến” như Trần Đĩnh nêu trong Đèn cù).
Tài liệu này nằm trong bộ sưu tầm các bài nói, bài viết của Đại tướng, do cụ Đại tá, tiến sĩ sử học Nguyễn Văn Khoan tập hợp, với mục đích là “lưu giữ trong tủ sách gia đình” để “tự nghiên cứu, học tập” (năm nay cụ Khoan cũng đã 86 tuổi hạc). Tuy vậy cụ cũng có hảo ý “không dám từ chối bạn đọc nào muốn tham khảo” và nhờ vậy, tôi may mắn được tặng một bản coppy. Nhân đây, xin cảm tạ sự ưu ái của cụ
Do cái ipad của tôi không sạc được điện nên tạm thời chưa cung cấp được ảnh của tài liệu này, tôi sẽ chụp đưa lên bài viết sau(*).
Dưới đây gõ lại nguyên văn, kể cả những chỗ gạch dưới, từ bản chụp (coppy) của bản đánh máy. Tuy nhiên những đoạn tô màu đậm hơn là tôi cố ý nhấn mạnh.
“Ngày 20 tháng 2 năm 1988

Anh Sáu Thọ
Tôi đã xem bài nói của anh về “Một số vấn đề tổng kết chiến tranh và biên soạn lịch sử quân sự”. Anh đã nói rõ, đây là quan điểm cá nhân, không thể nói là của Bộ Chính trị mà cũng chưa phải là được tập thể tổng kết
Cậu Nhân nói anh muốn tôi phát biểu ý kiến. Từ lâu, tôi đã suy nghĩ nhiều về vấn đề được nêu ra, nhưng nay muốn phát biểu thì phải bàn bạc và trao đổi thêm với một số đồng chí lãnh đạo và chỉ huy lúc bấy giờ. Mà hiện nay, thì công tác trước mắt quá bận, chưa có thì giờ làm được.
Vì vậy, tôi chỉ nêu một số ý kiến để anh tham khảo
1)- Về vấn đề đánh giá tình hình và chủ trương của ta sau hội nghị Giơ - ne - vơ
Phải nói rằng tình hình bấy giờ khá phức tạp, tư tưởng hòa bình chủ nghĩa của bạn cũng khá mạnh.
Nhưng, Bác luôn nhắc nhở anh Trường Chinh và các đồng chí trong Bộ Chính trị phải theo dõi âm mưu thâm độc của kẻ thù, không được chủ quan. Tôi thấy sự sáng suốt của Bác và Bộ Chính trị biểu hiện rõ nhất là ở chỗ ngay lúc bấy giờ đã xác định kẻ thù cụ thể trước mắt của toàn dân là đế quốc Mỹ, phái thực dân Pháp phản hiệp định và bọn Ngô Đình Diệm, đế quốc Mỹ là kẻ thù đầu sỏ và nguy hại nhất.
Tôi nhớ lại trước khi Hiệp định Giơ-ne-vơ được ký kết, đã có cuộc hội đàm giữa Bác và đồng chí Chu Ân Lai ở Liễu Châu. Trong cuộc hội đàm ấy, đồng chí Chu đã có bài phát biểu rất dài, dùng nhiều lý lẽ để thuyết phục ta cần dành cho được hòa bình, nói rất nhiều về những điều kiện thuận lợi đưa đến tổng tuyển cử thống nhất đất nước. 
Sau cuộc hội đàm ấy, trên đường đi tàu hỏa về nước, Bác và chúng tôi đã trao đổi ý kiến về cục diện sắp tới. Tôi đã nói với anh Trần Văn Quang: ta có trên 30 vạn quân, còn địch thì có những 45 vạn (anh Quang tính là 47 vạn), thì làm thế nào có thể tổng tuyển cử, có hòa bình thống nhất đất nước được. Chúng tôi đã trình bày ý kiến ấy với Bác. Và khi về nhà, nghe báo cáo lại nội dung cuộc hội đàm thì Bác và các anh đều cho rằng lời phát biểu và cách phân tách và dự đoán tình hình của đồng chí Chu là một chiều.
Do vậy, sau khi Hiệp định được ký kết, ta đã nêu ra nhiệm vụ phải đấu tranh để củng cố hòa bình, đòi thực hiện Hiệp định Giơ-ne-vơ, nhưng đề ra 2 khả năng, có khi nói 3 khả năng, nhất là sau khi Mỹ lập ra khối SEATO, công nhiên phá hoại hiệp định.
Và rất sớm, Bác và Bộ Chính trị đã nhận định cuộc đấu tranh để thi hành hiệp định Giơ-ne-vơ là một cuộc đấu tranh cách mạng, sự nghiệp đấu tranh thống nhất là một nhiệm vụ cách mạng: đó là sự nghiệp tiếp tục và hoàn thành cách mạng dân tộc dân chủ nhân dân trong cả nước. Lúc anh Ba ra, anh Ba tỏ ra rất đồng tình về điểm này và nói rất mừng về vấn đề xác định Mỹ là kẻ thù chính của cách mạng Việt Nam.
Bây giờ nhớ lại, tôi nghĩ rằng do có nhất trí ấy, cho nên vào cuối năm 1958, Bộ Chính trị đã giao cho tôi nhiệm vụ khởi thảo Nghị quyết 15 về cách mạng miền Nam. Tôi đã làm việc ấy với anh Hoàng Tùng và anh Trần Quang Huy trong khoảng 2 tuần lễ ở Đồ Sơn. Bản dự thảo đã được chuyển cho anh Ba xem lại, tôi nhớ về cơ bản không có thay đổi gì (nhất là về vấn đề bạo lực cách mạng, vấn đề về quan hệ giữa đấu tranh chính trị với khởi nghĩa và đấu tranh vũ trang trường kỳ) để trình ra Hội nghị Trung ương.
Trong cuộc thảo luận ở Hội nghị Trung ương, ý kiến của các anh trong Bộ Chính trị và phần lớn các đồng chí Trung ương đều nhất trí trên tất cả các vấn đề cơ bản, và Nghị quyết đã được thông qua với sự nhất trí cao
Anh cũng nhớ rằng chính theo tinh thần đấu tranh cách mạng phải dùng bạo lực ấy, mà sau khi trao đổi ý kiến với đồng chi Kayson, Trung ương Đảng ta đã có Nghị quyết giúp cách mạng Lào chuyển từ đầu tranh chính trị lên kết hợp đấu tranh chính trị với đấu tranh vũ trang, về sau từng bước đưa đấu tranh vũ trang lên vị trí chủ yếu.
2)- Về chiến dịch Trị Thiên. Vấn đề giải phóng được Huế hay không, không phải là suy diễn theo cục diện chiến trường lúc bấy giờ: Ta đánh chính diện, tình hình rất khó khăn, nhất là lúc anh đang ở Paris, mấy lần điện về: (lúc nào có dịp sẽ nói chuyện thêm).

Vấn đề là phải đặt câu hỏi: nếu ta cứ giữ vững quyết tâm lúc đầu, lấy Trị Thiên làm hướng chủ yếu, tấn công vào Quảng Trị kết hợp với đánh vu hồi vào Huế (tập trung trung đoàn công binh anh hùng mở đường phía Tây Huế) thì có thể giải phóng được Huế hay không?

Trên thực tế, ta đã thay đổi quyết tâm đúng đắn ban đầu, đề ra quyết tâm thứ hai lấy Tây Nguyên làm hướng chủ yếu. Tôi và một số đồng chí cho rằng thay đổi quyết tâm như vậy là sai. Do đó, đã phân tán chủ lực và phân tán lực lượng công binh vào hướng Tây Nguyên. Đến khi giải quyết hậu cần không được, điều động lực lượng cũng khó, thì mới bị động chuyển lại lấy Quảng Trị làm hướng chủ yếu, lâm vào thế phải đánh chính diện, còn hướng vu hồi thì không mở ra được vì kế hoạch làm đường ở phía Tây Huế đã bị bỏ dở, do lực lượng công binh một phần lớn đã điều đi Tây Nguyên.
3)- Về vấn đề Buôn Ma Thuột thì trong Quân ủy không hề có cuộc tranh luận nên đánh Đức Lập hay đánh Buôn Ma Thuột. Kế hoạch đánh Đức Lập đã được đề ra từ trước, nhằm mở đường cho bộ đội chủ lực ta tiến vào Miền Đông Nam Bộ khi cần, tránh không phải đi qua lãnh thổ Căm-pu-chia.
Sau khi ta giành thắng lợi ở Phước Long, nhược điểm của địch bộc lộ rõ, thì toàn thể Quân ủy đều hạ quyết tâm đánh Buôn Ma Thuột. Hôm anh đến, Quân ủy đang bàn là bàn về cách đánh như thế nào để đảm bảo thắng lợi, đề ra hai phương án: trường hợp địch còn sơ hở chưa tăng cường và trường hợp địch đã tăng cường, cả hai phương án đều nhằm mục đích tiêu diệt địch và giải phóng Ban Mê Thuột. Tôi cũng đã đề cập đến khả năng địch rút khỏi Tây Nguyên nếu ta giành được thắng lợi lớn
Anh Dũng, anh Thái, anh Thảo đều nhất trí với kết luận của tôi.
Nhớ lại, sau khi Hiệp định Paris được ký kết, Nghị quyết 21 của Trung ương nói đến thời cơ lịch sử giải phóng miến Nam, hoàn thành cách mạng dân tộc dân chủ nhân dân trong cả nước. Tôi đã đề ra với các đồng chí lãnh đạo khu V, khả năng giải phóng Tây Nguyên trước. Tôi cũng đã làm việc với anh Hoàng Minh Thảo về vấn đề này, xác định Buôn Ma Thuột là điểm yếu nhất, lại là địa bàn cơ động nhất ở Tây Nguyên (anh Thảo hiểu Tây Nguyên nên phân tách đúng và sắc) và từ lúc ấy đã có chỉ thị cho anh Thảo chuẩn bị chiến trường. Học viện quân sự cũng bắt đầu nghiên cứu phương án tác chiến
4)- Một số điểm khác về trận Tổng tấn công mùa Xuân 1975 nếu đưa ra bàn thì cũng còn có ý kiến. Lúc này, nên cố gắng ghi lại sự kiện lịch sử cho chính xác. Nếu muốn bàn thì nên có đủ các đồng chí lãnh đạo và chỉ huy chủ chốt lúc bấy giờ. Rất tiếc là anh Thái và anh Tấn không còn. Nhiều anh khác hiện cũng rất bận. Hay là ai có ý kiến như thế nào thì cứ viết ra cũng được, nói rõ là ý kiến của cá nhân mình
Thân
Văn”

(*) Bổ sung ảnh, ngày 18/3.


Không có nhận xét nào:

Đăng nhận xét

Chào bạn! Nếu bạn quan tâm vấn đề nêu ra, hãy để lại bình luận. Mỗi nhận xét của bạn dù đồng thuận hay không cũng sẽ góp phần cho trang này ngày được hoàn thiện hơn